Chương 1: Mở Đầu

Những con rồng,” Mollander nói rồi chộp lấy một quả táo héo lăn lóc trên mặt đất và tung nó từ tay này sang tay kia.

“Ném đi,” Alleras Nhân Sư thúc giục. Cậu ta rút một mũi tên ra khỏi bao rồi đặt lên dây cung.

“Ước gì mình được nhìn thấy một con rồng nhỉ.” Roone lùn mập mạp là người trẻ nhất trong bọn, còn hai năm nữa cậu ta mới đến tuổi trưởng thành. “Mình muốn được nhìn thấy rồng quá đi mất.”

Còn mình chỉ ước được ngủ trong vòng tay của Rosey, Pate thầm nghĩ. Cậu chuyển mình liên tục trên ghế. Đến ngày mai thôi, cô gái sẽ thuộc về cậu. Mình sẽ đem nàng rời Oldtown, băng qua biển

hẹp tới một Thành Phố Tự Trị. Ở đó chẳng có vị học sĩ nào, và sẽ chẳng còn ai kết tội cậu nữa.

Tại nơi đang đứng, cậu có thể nghe thấy tiếng cười của Emma vọng ra qua cửa sổ chớp trên lầu, hòa lẫn với giọng nam trầm của vị khách mà bà đang phục vụ. Bà ta là người lớn tuổi nhất trong đám hầu gái ở quán rượu Quill và Tankard này. Emma phải ít nhất 40 tuổi, nhưng trông bà vẫn đẫy đà và xinh đẹp. Rosey là con gái của bà, 15 tuổi và vừa mới dậy thì. Emma đã tuyên bố rằng trinh tiết của

Rosey phải đáng giá một đồng rồng vàng. Pate đã để dành được chín đồng hươu bạc, một bình đầy những đồng tám xu và một đống xu lẻ, đó là tất cả những gì Pate có. Thà cậu ấp nở ra một con rồng còn khả thi hơn việc dành dụm đủ một đồng vàng.

“Nếu thế thì cậu sinh quá muộn rồi đấy, cậu bé ạ.” Armen Thầy Dòng đáp lời Roone. Anh ta đeo một sợi dây da quanh cổ, trên đó xâu một loạt các mắt xích bằng thiếc, chì và đồng. Cũng như mọi thầy

dòng khác, có vẻ như Armen cho rằng các giáo sinh chỉ có củ cải mọc trên cổ chứ không phải đầu. “Con rồng cuối cùng đã chết dưới triều vua Aegon đệ Tam rồi.”

“Đó là con rồng cuối cùng ở Westeros,” Mollander nhấn mạnh.

“Ném đi,” Alleras lại thúc giục lần nữa. Đó là chàng trai duyên dáng mà họ vẫn gọi là Nhân Sư. Tất cả các cô hầu gái đều để mắt đến cậu ta. Ngay cả Rosey cũng thỉnh thoảng chạm vào tay cậu ta khi

mang rượu vang đến, Pate đành phải nghiến chặt răng và giả vờ không nhìn thấy gì hết.

“Con rồng cuối cùng của Westeros thì cũng là con rồng cuối cùng.” Armen kiên trì phản bác. “Mọi người đều biết rõ điều đó.”

“Ném quả táo đi,” Alleras giục giã. “Hay cậu định ăn nó.”

“Đây.” Kéo lê bên chân bị khoèo, Mollander nhảy lò cò một bước ngắn, xoay người và quăng mạnh quả táo vào màn sương mù dày đặc trên dòng Honeywine. Nếu không vì cái chân như thế, có lẽ cậu ta đã trở thành một hiệp sĩ giống cha mình. Sức mạnh của cậu ta nằm ở đôi tay to khỏe và bờ vai

lực lưỡng. Nhanh như cắt, quả táo bay vụt đi...

...nhưng vẫn không nhanh bằng mũi tên xé gió lao theo, mũi tên dài một mét bằng gỗ vàng, đuôi gắn lông vũ đỏ thắm. Pate không nhìn thấy nhưng nghe được khoảnh khắc mũi tên xuyên qua quả táo. Một

tiếng phập khẽ vọng lại từ phía dòng sông, theo sau là một tiếng tõm.

Mollander huýt sáo. “Xuyên tâm rồi. Tuyệt quá.”

Chẳng tuyệt bằng một nửa Rosey. Pate yêu đôi mắt màu nâu lục nhạt và khuôn ngực nở nang của cô bé, cả cái cách cô bé cười mỗi lần thấy cậu cùng đôi lúm đồng tiền trên má. Đôi khi cô đi chân trần trong lúc đem rượu ra để cảm nhận cỏ mềm lướt qua bàn chân. Cậu yêu cả điều đó nữa. Cậu yêu mùi

thơm tươi mới và sạch sẽ tỏa ra từ cơ thể cô, những lọn tóc xoăn sau tai cô. Cậu thậm chí yêu cả những ngón chân cô. Có một đêm cô đã cho phép cậu xoa chân cho mình, đùa nghịch với chúng, và Pate đã nghĩ ra một câu chuyện vui về từng ngón chân để làm cô gái cười.

Có lẽ không nên vượt biển thì tốt hơn. Cậu có thể mua một con lừa bằng tiền tiết kiệm, rồi cậu và Rosey sẽ thay nhau cưỡi nó đến Westeros. Thầy Ebrose có thể cho rằng cậu chẳng được tích sự gì,

nhưng Pate biết cách bó xương và cho đỉa chích máu người bị sốt. Đám dân đen sẽ rất biết ơn khi cậu giúp họ. Và nếu có thể học cách cắt tóc cạo râu thì cậu còn có thể trở thành thợ cạo nữa. Thế là đủ, Pate tự nhủ, miễn là mình có được Rosey. Cô là tất cả những gì cậu muốn trên đời này.

Nhưng không phải lúc nào cũng thế. Đã có lần cậu mơ được trở thành học sĩ trong một tòa lâu đài, phụng sự cho một lãnh chúa hào phóng nào đó, người sẽ kính trọng sự thông thái của cậu và ban tặng cậu một con bạch mã thật đẹp để cảm ơn. Cậu sẽ cưỡi trên lưng con tuấn mã, cao ngạo và quý phái

mỉm cười với đám dân đen khi lướt qua họ.

Một đêm, trong sảnh chung của quán Quill và Tankard, sau khi nốc hết hai cốc rượu táo nặng khủng khϊếp, Pate đã khoác lác rằng cậu sẽ không chấp nhận làm một giáo sinh mãi mãi. “Quá đúng,” Leo

Lười lớn tiếng. “Mày sẽ trở thành cựu giáo sinh và đi chăn lợn.”

Pate uống cạn cốc rượu. Sáng nay, dãy nhà Quill và Tankard lập lòe ánh đuốc trông hệt như một hòn đảo ánh sáng giữa biển sương mù dày đặc. Xuôi về phía hạ lưu, ngọn đèn hiệu xa xa của Tháp

Hightower bềnh bồng trong màn đêm ẩm ướt như một mặt trăng màu cam mờ ảo, nhưng ánh sáng không đủ để nâng đỡ tinh thần Pate.

Đáng lẽ giờ này nhà giả kim đó phải đến rồi chứ. Hay đó chỉ là lời nói đùa độc ác, hay có gì không hay đã xảy ra với ông ta? Đây không phải là lần đầu tiên cơ may của Pate biến thành vận rủi.

Cậu đã từng tưởng mình may mắn khi được chọn để trợ giúp cho Archmaester Walgrave già nua với lũ quạ, nằm mơ cậu cũng không thể ngờ rằng công việc của cậu chỉ là mang thức ăn đến cho ông, quét dọn phòng và mặc quần áo cho ông mỗi sáng. Mọi người nói rằng Archmaester Walgrave chẳng còn nhớ gì về lũ quạ, vì thế Pate chỉ hy vọng nhận được một mắt xích bằng sắt đen, nhưng rốt cuộc ngay cả đến thứ đó Walgrave cũng không thể cho cậu. Vì lịch sự mà người ta vẫn để ông già đó giữ chức vụ archmaester. Ông từng là một học sĩ tài giỏi, nhưng giờ đây áo choàng của ông chỉ để che đi bộ đồ lót bẩn thỉu, và thậm chí cách đây nửa năm, vài vị thầy dòng còn thấy ông ngồi khóc trong thư viện vì không tìm được đường về phòng riêng. Maester Gormon đã thế chỗ Walgrave dưới chiếc mặt nạ sắt, chính ông ta cũng là người kết tội Pate ăn trộm.

Một chú chim sơn ca cất tiếng hót trong tán cây táo cạnh bờ sông. Tiếng hót ngọt ngào giúp cậu thư thái sau một ngày dài phải nghe tiếng kêu chói tai và bất tận của lũ quạ mà cậu phải chăm sóc. Những con quạ trắng biết tên cậu, chúng thường thì thầm với nhau “Pate, Pate, Pate” mỗi khi thoáng thấy bóng

cậu, đến mức cậu muốn gào lên. Những con chim trắng lớn này là niềm tự hào của Archmaester Walgrave. Ông muốn đem thân xác của mình cho chúng ăn khi qua đời, nhưng Pate không biết chúng có cùng nguyện vọng đó hay không.

Pate đến đây không phải để uống, nhưng Alleras đã mua rượu để mừng cậu ta nhận được một mắt xích đồng, và mặc cảm tội lỗi làm Pate thấy mình khát nước. Có lẽ vì rượu táo quá nặng mà cậu thấy tiếng chim sơn ca như đang rung lên điệp khúc “vàng đổi sắt, vàng đổi sắt, vàng đổi sắt”. Thật lạ lùng

vì người lạ hôm trước cũng nói như thế vào cái đêm Rosey sắp xếp cho họ gặp nhau. “Ông là ai?” Pate đã gặng hỏi ông ta và người đàn ông trả lời. “Là một nhà giả kim. Ta có thể biến sắt thành vàng.” Thế rồi đồng xu nằm trong tay ông ta, nhảy nhót qua các kẽ tay và ánh lên màu vàng dìu dịu dưới ánh nến. Một mặt đồng xu đúc hình một con rồng ba đầu, mặt kia là hình một vị vua đã chết nào đó. Vàng đổi sắt, Pate nhớ lại, không còn gì tốt hơn thế. Mày có muốn cô ấy không? Mày có yêu cô ấy không? “Nhưng tôi không phải kẻ trộm,” cậu nói với người đàn ông tự xưng là nhà giả kim, “tôi là một giáo sinh của Citadel.” Nhà giả kim gật đầu rồi nói. “Nếu cậu cần cân nhắc thêm, ta sẽ quay lại đây sau ba ngày cùng với đồng vàng.”

Ba ngày trôi qua. Pate quay lại Quill và Tankard mà vẫn chưa rõ mình muốn gì. Nhưng nhà giả kim không ở đó, chỉ có Mollander, Armen và Alleras Nhân Sư với Roone đi theo. Nếu cậu không nhập

bọn với họ, chắc chắn họ sẽ nghi ngờ.

Quán rượu Quill và Tankard không bao giờ đóng cửa. Đã sáu trăm năm nay, nó vẫn đứng đó trên cù lao giữa dòng Honeywine và chưa bao giờ đóng cửa lấy một lần. Mặc dù tòa nhà gỗ cao này

nghiêng về phía nam hệt như điệu bộ nghiêng ngả của đám giáo sinh say rượu, nhưng Pate nghĩ nó sẽ

còn đứng vững sáu trăm năm nữa để bán rượu bia và thứ rượu táo nặng khủng khϊếp cho các thủy thủ

và dân chài, thợ rèn và ca sĩ, thầy tu và hoàng thân quốc thích, các giáo sinh và thầy dòng của Citadel.

“Oldtown không phải là cả thế giới,” Mollander nói to. Cậu ta là con trai một hiệp sĩ và suốt ngày say bí tỉ. Từ khi người ta báo tin cha cậu đã chết trong trận Xoáy Nước Đen, gần như đêm nào cậu ta cũng say xỉn. Ngay cả ở Oldtown, cách xa nơi chiến trận và an toàn sau lớp tường thành, Cuộc chiến Ngũ Vương vẫn tác động đến tất cả bọn họ... mặc dù Archmaester Benedict quả quyết rằng chẳng có cuộc chiến nào hết giữa năm vị vua, vì Renly Baratheon đã bị gϊếŧ chết trước khi Balon Greyjoy tự

đội mũ miện lên đầu.

“Cha tôi luôn nói rằng thế giới lớn hơn tòa lâu đài của bất kỳ lãnh chúa nào,” Mollander tiếp tục nói. “Chắc chắn những con rồng là thứ khó tìm thấy nhất ở Qarth, Asshai và Yi Ti. Những câu chuyện

của thủy thủ...”

“...là những câu chuyện được các thủy thủ kể lại,” Armen ngắt lời. “Thủy thủ, Mollander yêu quý

ạ. Quay lại bến tàu mà xem, tôi dám cá các thủy thủ sẽ kể cho cậu nghe về những nàng tiên cá đã ngủ với họ, hay về chuyện họ đã sống trong bụng một con cá cả năm trời.”

“Làm sao cậu biết họ không trải qua những chuyện đó?” Mollander lúi húi tìm thêm táo dưới bãi cỏ. “Cậu đâu có tự mình trải nghiệm mà dám khẳng định như vậy? Một thủy thủ với một câu chuyện, ừ,

người ta có thể cười nhạo chuyện đó, nhưng khi tất cả các tay chèo trên bốn con thuyền khác nhau kể cùng một câu chuyện bằng bốn ngôn ngữ khác nhau thì...”

“Câu chuyện sẽ không còn giống nhau nữa,” Armen khẳng định. “Những con rồng ở Asshai, rồng ở Qarth, rồng ở Meereen, rồng của người Dothraki, rồng giải phóng nô ɭệ... người này sẽ kể khác người

kia.”

“Chỉ khác chi tiết thôi.” Rượu vào khiến Mollander trở nên ương ngạnh hơn, nhưng ngay cả khi tỉnh táo cậu ta cũng vẫn là một kẻ bướng bỉnh. “Mọi người đều nói về những con rồng, và một nữ

hoàng trẻ xinh đẹp.”

Con rồng duy nhất Pate quan tâm là rồng vàng. Cậu tự hỏi không biết điều gì đã xảy ra với nhà giả kim đó. Đã là ngày thứ ba rồi và ông ta hứa sẽ tới đây.

“Có một quả táo nữa gần chân cậu đấy,” Alleras gọi Mollander, “và tôi vẫn còn hai mũi tên trong bao.”

“Quỷ tha ma bắt cái bao của cậu.” Mollander nhặt quả táo rụng lên. “Quả này sâu rồi,” cậu ta phàn nàn nhưng vẫn ném quả táo đi. Mũi tên đuổi kịp quả táo khi nó bắt đầu rơi xuống và cắt ngọt nó làm đôi. Một nửa quả rơi xuống mái một tòa tháp, lăn xuống cái mái thấp hơn, nảy lên rồi rơi xuống đất

cách Armen chỉ ba mươi phân.

“Nếu cậu cắt đôi con sâu, cậu sẽ được hai con.” Thầy dòng nói với bọn họ.

“Giá mà táo cũng nhân đôi như thế thì chẳng ai còn đói nữa.” Alleras Nhân Sư mỉm cười. Cậu ta luôn mỉm cười, như thể biết rõ một trò đùa bí mật nào đó. Nó đem lại cho cậu ta một vẻ ngoài tinh quái, rất phù hợp với chiếc cằm nhọn, đường viền chân tóc nhọn ngay giữa trán và mái tóc quăn đen

nhánh rậm rạp cắt sát da đầu.

Alleras rồi sẽ trở thành một học sĩ. Cậu ta mới chỉ ở Citadel một năm mà đã rèn được ba mắt xích trong chuỗi xích của học sĩ. Armen rèn được nhiều hơn, nhưng mỗi mắt xích cậu ta phải mất cả năm mới giành được. Nhưng cậu ấy rồi cũng sẽ trở thành một học sĩ thôi. Roone và Mollander vẫn còn là những giáo sinh cổ hồng, nhưng Roone còn rất trẻ, trong khi Mollander thích uống rượu hơn là đọc

sách.

Còn Pate...

Pate đã ở Citadel năm năm, cậu đến đây từ khi mới 13 nhưng đến giờ vẫn chỉ là một giáo sinh cổ hồng như cái ngày đầu tiên mới tới từ vùng đất phía Tây. Đã hai lần cậu tưởng mình đã sẵn sàng. Lần đầu cậu tới trước Archmaester Vaellyn để chứng tỏ kiến thức về các vị thần của mình. Nhưng thay vào đó, cậu hiểu được vì sao thầy Vaellyn Dấm Chua lại có biệt hiệu này. Phải mất hai năm sau Pate mới

đủ can đảm để thử lại lần nữa. Lần này, cậu chọn Archmaester Ebrose già phúc hậu, nổi tiếng vì có giọng nói êm dịu và đôi tay nhẹ nhàng, nhưng những tiếng thở dài của thầy Ebrose cũng khiến cậu đau khổ chẳng kém gì những lời chỉ trích sâu cay của thầy Vaellyn.

“Một quả nữa thôi,” Alleras hứa hẹn, “rồi tôi sẽ nói cho cậu biết tôi nghi ngờ điều gì về những con rồng.”

“Có gì cậu biết mà tôi không biết nhỉ?” Mollander lầm bầm. Cậu ta nhìn thấy một quả táo trên cành, nhảy lên hái nó xuống và ném đi. Alleras kéo căng dây cung đến mang tai, duyên dáng xoay lại

để dõi theo mục tiêu di động. Cậu ta buông cung ngay lúc quả táo bắt đầu rơi.

“Cậu luôn bắn trượt phát cuối cùng,” Roone nhận xét.

Quả táo không bị bắn trúng rơi tõm xuống sông làm nước bắn lên tung tóe.

“Đấy,” Roone nói.

“Cái ngày cậu làm được tất cả là ngày cậu ngừng tiến bộ.” Alleras buông chùng dây cung và cất nó vào bao da. Cánh cung được tạc từ gỗ vàng vô cùng quý hiếm ở Quần đảo Summer. Pate đã thử uốn cong nó mà không được. Chàng Nhân Sư trông mảnh khảnh nhưng sức mạnh lại ẩn chứa trong đôi tay

gầy guộc ấy, Pate ngẫm nghĩ trong khi Alleras bước một chân qua chiếc ghế dài và với lấy ly rượu vang. “Con rồng có ba đầu,” cậu ta lè nhè tuyên bố bằng chất giọng xứ Dorne mềm mại.

“Đây là một câu đố phải không?” Roone hỏi. “Trong truyền thuyết, nhân sư luôn thích đố mẹo.”

“Không phải câu đố.” Alleras nhấp một ngụm rượu vang. Những người còn lại đều đang nốc từng vại rượu táo nặng nổi danh của Quill và Tankard nhưng Alleras thích loại rượu vang có vị lạ ngọt

ngào của quê mẹ hơn. Ngay cả ở Oldtown, giá của nó cũng không hề rẻ.

Chính Leo Lười đã gán cho cậu ta biệt danh “Nhân Sư”. Nhân sư là một con vật tổng hợp: khuôn mặt người, thân hình sư tử và đôi cánh chim ưng. Alleras cũng vậy: cha cậu ta là người Dorne, mẹ cậu ta là một cư dân da đen của Quần đảo Summer, vì vậy, nước da của cậu sẫm xịt như màu gỗ tếch. Và giống như những con nhân sư bằng cẩm thạch xanh nằm hai bên cổng chính của Citadel, cậu ta có đôi

mắt màu mã não đen.

“Không con rồng nào ba đầu cả, trừ trên khiên và trên cờ hiệu,” Armen phản bác một cách kiên quyết. “Đó là một vật có tính biểu tượng, vậy thôi. Hơn nữa, người Nhà Targaryens đã chết cả rồi.”

“Không phải tất cả,” Alleras trả lời. “Vua Ăn Mày còn một cô em gái.”

“Tôi tưởng cô ta bị đập đầu vào tường chết rồi.” Roone tham gia.

“Không,” Alleras nói. “Đó là Aegon, con trai hoàng tử Rhaegar; những binh lính gan dạ của Sư Tử Nhà Lannister đã đập đầu ông ta vào tường. Chúng ta đang nói về em gái Rhaegar cơ, cô ta sinh ra ở

Dragonstone trước khi nó thất thủ và được gọi là Daenerys ấy.”

“Bão Tố, tôi đã nhớ ra cô ta rồi.” Mollander nâng cao chiếc cốc và lắc óc ách chỗ rượu táo còn lại. “Chúc mừng cô nàng!” Nói rồi cậu ta nốc cạn chỗ rượu, đặt mạnh cái cốc rỗng xuống bàn, ợ to và dùng mu bàn tay chùi miệng. “Rosey đâu rồi? Nữ hoàng hợp pháp của chúng ta đáng được chúc mừng

bằng một chầu rượu nữa, phải không nào?”

Armen Thầy Dòng trông có vẻ hoảng hốt. “Hạ giọng xuống, đồ ngốc. Đừng đùa những điều như thế. Cậu không bao giờ biết được ai sẽ nghe thấy đâu. Nhện có tai mắt ở khắp mọi nơi đấy.”

“Armen, đừng có sợ vãi tè thế. Tôi đề nghị nâng cốc chúc mừng chứ đâu phải nổi loạn.”

Pate nghe thấy một tiếng cười khẽ. Một giọng nói dịu dàng tinh quái vang lên sau lưng cậu. “Tao luôn biết mày là một thằng phản bội mà, Hopfrog.” Leo Lười đang lừ đừ đi vào từ dưới chân cây cầu lát ván cũ, trên người mặc bộ đồ sa tanh sọc vàng và xanh lục, chiếc áo choàng nửa người được đính vào vai bằng một bông hồng ngọc bích. Căn cứ vào màu sắc thì thứ rượu hắn đánh đổ lên vạt áo trước

là rượu vang đỏ. Một món tóc màu vàng tro xõa xuống một bên mắt.

Mollander nổi giận trước bộ dạng của hắn. “Chó chết. Cút đi. Mày không được chào đón ở đây.”

Alleras đặt tay lên cánh tay Mollander để giúp cậu ta bình tĩnh lại, còn Armen cau mày. “Thưa ngài Leo, theo những gì tôi biết thì cậu vẫn đang bị cấm túc ở Citadel trong vòng...”

“...ba ngày nữa.” Leo nhún vai. “Perestan nói rằng thế giới này đã 40 ngàn năm tuổi, Mollos thì nói 500 ngàn năm. Tao hỏi mày ba ngày đã là cái gì?” Mặc dù còn cả tá bàn để trống nhưng Leo vẫn ngồi vào bàn của họ. “Hopfrog, mua cho tao một ly Arbor vàng đi nào, và có thể tao sẽ không báo cho cha tao biết hành động nâng cốc chúc mừng của mày. Ở Checkered Hazard mấy quân bài đều quay ra

chống đối, và tao đã tiêu hết tiền ăn tối vào đó rồi. Lợn sữa với nước sốt mận nhồi hạt dẻ và nấm truýp trắng. Một người đàn ông cần phải ăn chứ. Chúng mày vừa ăn món gì thế?”

“Thịt cừu,” Mollander lẩm bẩm, giọng cậu ta không biểu lộ chút hào hứng nào. “Bọn tao chia nhau một cái đùi cừu luộc.”

“No nê lắm nhỉ.” Leo quay sang nhìn Alleras. “Nhân Sư này, con trai một lãnh chúa hẳn phải là người hào phóng. Tao biết mày vừa giành được một mắt xích đồng. Tao sẽ uống mừng cho điều đó.”

Alleras cười lại với hắn. “Tao chỉ mời rượu bạn bè thôi. Và tao đã nói rồi, tao không phải con trai lãnh chúa, mẹ tao là thương nhân.”

Đôi mắt nâu của Leo sáng lên vì rượu và sự hiểm độc. “Mẹ mày là một con khỉ ở Summer. Bọn người Dorne sẵn sàng làʍ t̠ìиɦ với bất cứ cái gì có lỗ giữa hai chân. Tao không có ý xúc phạm đâu

nhé. Mày đen như than nhưng ít nhất mày còn tắm, không như thằng chăn lợn bẩn thỉu kia.” Hắn vẫy tay chỉ về phía Pate.

Nếu mình ném cái cốc này vào mồm nó, mình có thể làm nó gẫy một nửa hàm răng, Pate nghĩ thầm. Chàng chăn lợn Pate Bẩn Thỉu là nhân vật chính của hàng ngàn câu chuyện tiếu lâm: một thằng bé tốt bụng, vụng về và ngốc nghếch nhưng lúc nào cũng đánh bại đám tiểu quý tộc phì nộn, những gã hiệp sĩ ngạo mạn và những tên tu sĩ khoa trương ngáng đường mình. Bằng cách này hay cách khác, sự đần độn của chàng hóa ra lại là sự ranh mãnh chưa từng thấy; các câu chuyện luôn kết thúc bằng việc Pate Bẩn

Thỉu ngồi ở địa vị lãnh chúa hoặc lên giường với con gái một hiệp sĩ nào đó. Nhưng đó chỉ là những câu chuyện mà thôi. Trong thế giới thực này, những chàng chăn lợn chẳng bao giờ được may mắn như vậy. Đôi khi, Pate nghĩ mẹ cậu chắc hẳn ghét cậu lắm nên mới đặt cho cậu cái tên đó.

Alleras không còn cười nữa. “Mày phải xin lỗi.”

“Tao á?” Leo trả lời. “Làm sao tao xin lỗi được, cổ họng tao khô lắm...”

“Mày làm ô danh dòng họ của mày bằng những lời mày nói,” Alleras nói với hắn. “Mày làm ô danh cả Citadel vì là một trong số chúng tao.”

“Tao biết. Vậy hãy mua rượu vang cho tao đi, để tao dìm chết nỗi hổ thẹn này.”

“Tao rút lưỡi mày bây giờ.” Mollander nạt.

“Thật sao? Thế thì làm sao tao kể cho mày nghe về những con rồng được?” Leo nhún vai lần nữa. “Con lai cũng có quyền chứ. Con gái Vua Điên còn sống đấy, cô ta ấp nở được ba con rồng.”

“Ba cơ à?” Roone ngạc nhiên.

Leo vỗ nhẹ lên tay Roone. “Nhiều hơn hai và ít hơn bốn. Nếu tao là mày, tao sẽ không cố gắng giành mắt xích vàng lúc này.”

“Để cho nó yên.” Mollander cảnh cáo.

“Nghĩa hiệp quá nhỉ. Được thôi. Mọi người trên mọi con thuyền trong vòng 300 dặm quanh Qarth đều nói về những con rồng đó. Vài người thậm chí còn nói rằng đã nhìn thấy chúng. Marwyn Phù Thủy

có vẻ tin họ.”

Armen bĩu môi phản đối. “Ông ta không đáng tin. Archmaester Perestan sẽ là người đầu tiên nói với mày điều đó.”

“Archmaester Ryam cũng nói như thế.” Roone chêm vào.

Leo ngáp dài. “Biển thì ẩm ướt, mặt trời ấm áp, còn bầy thú thì ghét chó săn.”

Hắn đặt biệt hiệu để nhạo báng không trừ một ai, Pate nghĩ, nhưng quả thật Archmaester Marwyn trông giống một con chó mastiff hơn là một học sĩ. Lúc nào trông ông ta cũng như thể muốn cắn người

vậy. Phù Thủy không giống như các học sĩ khác.

Người ta nói rằng ông ấy quan hệ với gái điếm và bọn phù thủy lang thang, nói chuyện với bọn người Ibben rậm lông và người Quần đảo Summer đen như hắc ín bằng ngôn ngữ của họ, thờ phụng những vị thần đáng ngờ trong cái am nhỏ của thủy thủ gần cầu tàu. Nhiều người còn nói rằng họ nhìn thấy ông ở những khu vực cặn bã trong thành phố, trong những khu ổ chuột và nhà thổ nhớp nhúa, kết giao cả với kịch sĩ, ca sĩ, lính đánh thuê và thậm chí cả với ăn mày. Thậm chí, người ta còn truyền tai nhau rằng ông từng gϊếŧ người bằng nắm đấm của mình.

Khi Marwyn quay lại Oldtown sau tám năm lang bạt ở phương đông để khám phá những vùng đất xa xôi, tìm kiếm những quyển sách bị thất lạc, theo học các thầy phù thủy và các pháp sư, thầy Vaellyn

Dấm Chua đặt biệt hiệu cho ông ta là “Marwyn Phù Thủy.” Cái tên này nhanh chóng lan truyền khắp Oldtown, tới mức gây cho thầy Vaellyn không ít phiền toái. “Hãy để những câu thần chú, những lời cầu nguyện cho các thầy tu và các sơ, tập trung trí óc cậu vào việc học những sự thật mà con người có thể tin được đi.” Archmaester Ryam đã từng có lần khuyên Pate như vậy, nhưng nhẫn, quyền trượng và mặt nạ của ông làm bằng vàng, chuỗi xích học sĩ của ông không có mắt xích nào làm bằng thép Valyria cả.

Armen nhìn Leo, hừ mũi khinh thường. Cậu ta có cái mũi rất thích hợp để làm việc ấy, nó dài, mảnh khảnh và nhọn. “Archmaester Marwyn tin vào nhiều điều kỳ dị nhưng những bằng chứng về rồng

của ông ấy không hơn gì Mollander, chỉ là những câu chuyện của thủy thủ thôi.”

“Mày sai rồi.” Leo đáp. “Có một cái nến thủy tinh trong phòng ông ấy.”

Cả dãy nhà ngập tràn ánh đuốc rơi vào im lặng. Armen thở dài và lắc đầu. Mollander bắt đầu cười. Nhân Sư chăm chú nghiên cứu Leo bằng đôi mắt đen mở to. Còn Roone trông ngơ ngác.

Pate biết những cây nến thủy tinh này, mặc dù chưa bao giờ nhìn thấy một cây nào sáng. Đó là bí mật được giữ gìn kém nhất Citadel. Người ta nói rằng, chúng được đưa từ Valyria về Oldtown trước Ngày Tàn một ngàn năm, nghe nói có bốn chiếc: một chiếc màu xanh lục, ba chiếc còn lại màu đen, tất

cả đều cao và xoắn.

“Nến thủy tinh là cái gì?” Roone hỏi.

Armen Thầy Dòng hắng giọng. “Đêm trước khi một thầy dòng tuyên thệ, anh ta phải thức một đêm trong hầm mộ, không được mang đèn đuốc hay nến gì cả mà chỉ được phát một cây nến làm bằng đá vỏ

chai. Suốt đêm hôm đó, anh ta phải sống trong bóng tối trừ khi thắp sáng được cây nến đó. Một số

người cũng đã thử - những kẻ ngu xuẩn và ương bướng, chuyên nghiên cứu những điều thần bí cao siêu. Họ thường bị đứt tay vì người ta nói rằng chóp cây nến sắc như dao cạo. Và rồi họ vẫn phải thức cả đêm trong bóng tối, với cái tay chảy máu và ủ ê suy nghĩ về thất bại của mình. Người thông minh hơn thì đi ngủ hoặc cầu nguyện, nhưng năm nào cũng có vài người muốn thử.

“Đúng đấy,” Pate đã nghe câu chuyện này rồi. “Nhưng một cây nến không phát sáng được thì dùng làm gì?”

“Đó là một bài học,” Armen trả lời, “bài cuối cùng phải học trước khi nhận được chuỗi xích của học sĩ. Cây nến thủy tinh đại diện cho chân lý, kiến thức, những gì hiếm có, đẹp đẽ và mong manh. Nó được làm thành hình cây nến để nhắc nhở chúng ta rằng một học sĩ phải thắp lên ánh sáng ở bất cứ nơi nào mình phụng sự, nó sắc để nhắc chúng ta nhớ kiến thức cũng có thể trở nên nguy hiểm. Một người thông thái sẽ dần dần trở nên ngạo mạn vì sự thông thái của mình, nhưng một học sĩ luôn phải khiêm nhường. Cây nến thủy tinh nhắc chúng ta điều đó. Kể cả khi đã tuyên thệ, nhận được chuỗi xích và bắt đầu phục vụ, một học sĩ sẽ luôn nhớ lại cái đêm thức trong bóng tối và không thể làm gì để thắp sáng

cây nến. Vì ngay cả khi có kiến thức uyên bác cũng có những điều bất khả thi.”

Leo Lười phá lên cười. “Bất khả thi đối với mày thôi. Chính mắt tao đã nhìn thấy cây nến đó cháy.”

“Mày nhìn thấy một cây nến cháy, tao không nghi ngờ gì hết,” Armen trả lời. “Một cây nến bằng sáp đen, có lẽ vậy.”

“Tao biết tao nhìn thấy cái gì chứ. Ánh sáng của nó rất kỳ quái, sáng chói, sáng hơn nến sáp ong và nến mỡ rất nhiều. Bóng của nó rất lạ, ngọn lửa không rung rinh kể cả khi có luồng gió tạt qua cánh cửa

mở sau lưng tao.”

Armen khoanh tay lại. “Đá vỏ chai không cháy được.”

“Đá rồng,” Pate tham gia. “Dân chúng gọi đó là đá rồng.” Không hiểu sao điều đó có vẻ quan trọng.

“Họ gọi thế,” Alleras Nhân Sư trầm ngâm. “Và nếu lại có rồng trên đời này thì...”

“Rồng và những điều đen tối hơn,” Leo cắt ngang. “Những con cừu ngu ngốc nhắm nghiền mắt lại, chỉ có con chó mastiff là nhìn thấy sự thật. Những thế lực cổ xưa trỗi dậy rồi. Bóng tối đã bị khuấy động. Một thời đại kỳ diệu và khủng khϊếp sắp đến, thời đại của thần thánh và anh hùng.” Leo vươn

vai và mỉm cười lười nhác. “Đáng giá một chầu rượu chứ, phải không?”

“Bọn tao uống đủ rồi.” Armen đáp lời. “Buổi sáng sẽ đến nhanh hơn chúng ta tưởng đấy, sáng mai Archmaester Ebrose có bài giảng về đặc tính của nướ© ŧıểυ. Ai muốn có một mắt xích bằng bạc thì

không nên bỏ lỡ bài giảng của ông ấy.”

“Tao không ngăn mày nếm nướ© ŧıểυ đâu,” Leo châm chọc. “Còn tao, tao thích vị rượu Arbor hơn.”

“Nếu phải lựa chọn giữa nướ© ŧıểυ và mày, tao thà uống nướ© ŧıểυ còn hơn.” Nói rồi Mollander rời khỏi bàn. “Đi nào, Roone.”

Nhân Sư với lấy túi đựng cung. “Tao về ngủ đây. Hy vọng sẽ mơ thấy rồng và nến thủy tinh.”

“Chúng mày đi hết à?” Leo nhún vai. “Không sao, vẫn còn Rosey. Chắc tao sẽ đánh thức viên kẹo ngọt ngào này dậy và làm cho cô nàng trở thành đàn bà.”

Alleras liếc nhìn biểu hiện trên mặt Pate. “Nếu nó không có tiền để mua một ly rượu vang thì nó cũng chẳng có nổi một đồng vàng cho cô nàng đâu.”

“Đúng,” Mollander nói thêm. “Thêm nữa, cậu cần phải là đàn ông đã trước khi làm ai đó trở thành đàn bà. Đi với bọn tôi nào, Pate. Thầy Walgrave già sẽ thức dậy khi mặt trời mọc. Ông ấy sẽ cần cậu

giúp việc vệ sinh cá nhân đấy.”

Nếu ông ấy nhớ được hôm nay mình là ai. Archmaester Walgrave không gặp khó khăn nào khi phân biệt con quạ này với con quạ khác, nhưng đối với người thì không được như thế. Đôi khi, dường như ông nhầm Pate với một người nào đó tên là Cressen. “Chưa phải bây giờ, tôi định ngồi đây thêm một lúc nữa.” Pate nói với các bạn mình. Bình minh vẫn còn chưa hé rạng. Nhà giả kim đó vẫn có thể đến,

và nếu vậy Pate phải ở đây.

“Tùy cậu thôi,” Armen trả lời. Alleras chần chừ nhìn Pate một thoáng rồi đeo cung lên một bên vai mảnh dẻ và theo các bạn rời khỏi quán, đi về phía cây cầu. Mollander đã quá chén nên phải vịn một tay vào vai Roone để khỏi ngã. Citadel cách đó không xa nếu tính theo đường chim bay. Nhưng họ không phải là chim, trong khi Oldtown lại là một mê cung thực sự với những con đường nhỏ, ngõ hẻm đan nhau chằng chịt và những phố nhỏ ngoắt nghéo. “Cẩn thận nhé,” Pate nghe thấy Armen nói vọng lại

khi cả bốn chìm vào màn sương mù dày đặc trên sông, “đêm nay ẩm ướt nên đường trơn lắm đấy.”

Khi tất cả đã đi, Leo Lười nhìn Pate chăm chăm qua cái bàn với vẻ cáu kỉnh. “Chán quá. Thằng

Nhân Sư đem tất cả bạc chuồn đi rồi, bỏ ta lại với thằng chăn lợn Pate Bẩn Thỉu này.” Hắn vươn vai, ngáp dài. “Rosey nhỏ bé ngọt ngào của chúng ta thế nào rồi, đang cầu nguyện à?”

“Ngủ,” Pate đáp cộc lốc.

“Tя͢ầи ͙ȶя͢υồиɠ, chắc chắn rồi.” Leo cười nhăn nhở. “Mày có nghĩ cô nàng thực sự đáng giá một đồng vàng không? Một ngày nào đó, tao nghĩ tao phải tìm ra câu trả lời.”

Pate biết tốt nhất là nên im lặng.

Leo cũng không cần câu trả lời của cậu. “Tao hy vọng một khi tao khám phá cô nàng xong, giá của cô ta sẽ giảm xuống đến mức những thằng chăn lợn cũng có thể chịu được. Lúc đó mày sẽ phải cảm ơn

tao.”

Tao phải gϊếŧ mày thì có, Pate nghĩ, nhưng cậu chưa đủ say để quẳng mạng sống của mình đi. Leo được huấn luyện sử dụng vũ khí thành thạo, và nổi tiếng nguy hiểm chết người với kỹ năng dùng gươm và dao găm của một kẻ đâm thuê chém mướn. Và nếu vì một lý do nào đó Pate gϊếŧ được hắn đi chăng

nữa, cậu cũng sẽ phải trả giá bằng chính cái đầu của mình. Leo có hai tên trong khi Pate chỉ có một. Tên thứ hai của hắn là Tyrell – Ser Moryn Tyrell, tướng chỉ huy Đội Gác Thành của Oldtown, cha của Leo. Mace Tyrell, Lãnh chúa vùng Highgarden, người bảo hộ phương nam là anh họ hắn. Còn Trưởng Lão của Oldtown – Lãnh chúa Leyton của Hightower, hiện đang là người cai quản Citadel và giữ nhiều tước hiệu khác nữa, cũng là chư hầu của Nhà Tyrell. Bỏ qua đi, Pate tự nhủ. Hắn nói những điều ấy cũng chỉ để làm tổn thương mình.

Sương mù phía đông loãng dần. Pate nhận ra bình minh đang tới. Bình minh tới chứ không phải nhà giả kim. Pate chẳng biết cậu nên cười hay nên khóc. Mình có còn là kẻ trộm không nếu mình trả lại nó và không ai biết? Lại một câu hỏi nữa mà cậu không trả lời được, như những câu mà thầy Ebrose và

thầy Vaellyn đã hỏi.

Khi cậu rời khỏi ghế và đứng lên, rượu nặng bốc lên đầu ngay lập tức, Pate phải chống tay lên bàn để đứng vững. “Hãy để Rosey được yên,” cậu chốt lại trước khi bỏ đi, “để nàng yên, nếu không tao sẽ

gϊếŧ mày.”

Leo gạt mớ tóc đang xõa xuống mắt. “Tao không đánh nhau tay đôi với bọn chăn lợn. Cút đi.”

Pate quay đi và băng qua dãy nhà, bước chân cậu lộp cộp trên những tấm ván đã mòn vì mưa gió của cây cầu cổ. Đúng lúc cậu sang đến bờ bên kia, bầu trời phía đông đã nhuốm ánh hồng. Thế giới thật rộng lớn, Pate tự nhủ. Nếu mình mua con lừa đó, mình vẫn có thể thả bộ trên những con đường của

Bảy Phụ Quốc, cho đỉa chích máu và bắt chấy cho đám dân đen. Mình có thể làm thủy thủ trên một con thuyền nào đó, chèo thuyền cho họ để đến Qarth qua Cổng Ngọc Bích để được xem tận mắt những con rồng chết tiệt. Mình sẽ không cần phải quay lại với ông già Walgrave và đám quạ nữa.

Thế nhưng chẳng hiểu vì sao, bước chân cậu vẫn quay về Citadel.

Khi tia nắng đầu tiên xé toạc màn mây phía đông cũng là lúc chuông sớm bắt đầu ngân vang, tiếng chuông bay từ điện thờ của Thủy Thủ ra bến tàu. Một lát sau, điện thờ của Lãnh Chúa bắt đầu hòa nhịp, tiếp đó là Thất Điện từ những khu vườn bên kia dòng Honeywine, và cuối cùng là Điện Ngôi Sao, nơi từng là nơi ở của Tu Sĩ Cấp Cao trong một ngàn năm trước khi Aegon chiếm được Vương Đô. Tất cả tạo thành một bản nhạc hùng tráng, nhưng lại chẳng ngọt ngào bằng khúc hát của một con chim sơn ca.

Pate cũng nghe thấy tiếng hát xen lẫn tiếng chuông vang rền. Mỗi sáng, khi tia nắng đầu tiên ló rạng, các tu sĩ áo đỏ lại tập trung bên ngoài ngôi đền nhỏ khiêm nhường cạnh cầu tàu để chào đón mặt trời vì màn đêm tối tăm và đầy rẫy những điều khủng khϊếp. Pate đã nghe thấy họ hát những lời ca đó

cả trăm lần, để cầu xin thần R’hllor cứu rỗi họ khỏi những điều đen tối. Đối với Pate chỉ Thất Diện

Thần là đủ, nhưng cậu nghe nói Stannis Baratheon bây giờ cũng tôn sùng những ngọn lửa đêm. Ông ta

thậm chí còn đưa trái tim bốc lửa của thần Rh’llor lên cờ hiệu thay cho con hươu đội mũ miện trước

kia. Pate nghĩ, nếu ông ta giành được Ngai Sắt, không phải tất cả chúng ta đều phải học bài ca ấy hay

sao, nhưng có vẻ điều đó sẽ không thể xảy ra. Tywin Lannister đã đánh bại Stannis và thần R’hllor của

ông ta ở Xoáy Nước Đen, không lâu nữa sẽ kết liễu họ và bêu đầu kẻ tiếm quyền Baratheon trên cổng

thành Vương Đô.

Sương mù ban đêm đã tan hẳn, Oldtown hiện dần ra như bóng ma trong ánh sáng ảm đạm trước lúc rạng đông. Pate chưa bao giờ nhìn thấy Vương Đô, nhưng cậu biết đó là một thành phố của những ngôi

nhà vách phên trát đất, đường phố lầy lội bùn đất, những mái nhà lợp rạ và những túp lều bằng gỗ. Oldtown được xây dựng bằng đá, đường phố rải sỏi tới tận những ngõ hẻm tồi tàn nhất. Chưa lúc nào thành phố đẹp bằng lúc rạng đông. Về phía tây sông Honeywine, tòa trụ sở chính đứng sừng sững trên bờ sông trông như một dãy cung điện.

Phía thượng lưu, các mái vòm và tháp của Citadel nổi bật hai bên bờ sông được nối với nhau bằng những chiếc cầu đá, nhà cửa san sát. Phía hạ lưu, dưới những bức tường cẩm thạch đen và những cửa sổ hình vòm của Điện Ngôi Sao là những ngôi nhà của các mục sư mọc xúm xít như đàn trẻ nhỏ tụ tập

quanh chân mẹ.

Xa xa, nơi sông Honeywine đổ vào vịnh Whispering Sound, tòa tháp Hightower đứng sừng sững, ngọn lửa đèn hiệu trên nóc tháp sáng rực trên nền trời rạng đông. Đứng trên điểm cao nhất của đảo

Battle, bóng tháp cắt qua thành phố như một lưỡi gươm. Những người sinh ra và lớn lên ở Oldtown có thể nhìn bóng tháp mà đoán được thời gian trong ngày. Người ta nói rằng, một người thậm chí có thể nhìn thấy Tường Thành từ trên đỉnh tháp. Có lẽ vì thế mà suốt hơn một thập kỷ nay Lãnh chúa Leyton

không rời khỏi tòa tháp, ông thích cai trị thành phố từ trên mây.

Một chiếc xe của người bán thịt lọc cọc vượt qua Pate trên con đường dọc bờ sông, năm chú lợn con đằng sau xe sợ hãi kêu eng éc. Pate tránh đường cho chiếc xe, và cũng tránh không bị lấm bẩn khi một phụ nữ đổ cả xô phân và nướ© ŧıểυ xuống từ một cửa sổ trên đầu. Khi trở thành học sĩ và ở trong lâu đài, mình sẽ có ngựa để cưỡi, Pate thầm nghĩ. Bỗng cậu vấp phải một hòn sỏi và tự hỏi mình đang đánh lừa ai thế này. Cậu sẽ không có chuỗi xích nào hết, không được ngồi ở vị trí trang trọng trong lâu đài của lãnh chúa, cũng không được cưỡi con bạch mã nào. Ngày này qua ngày khác cậu sẽ chỉ được

nghe tiếng quạ quang quác ầm ĩ và giặt vết phân bám trên qυầи ɭóŧ của Archmaester Walgrave.

Khi cậu đang quỳ một gối, cố gắng lau đi vết bùn trên áo thì một tiếng nói bỗng cất lên, “Chào cậu, Pate.”

Nhà giả kim đang đứng ngay trước mặt cậu.

Pate vội vàng đứng lên. “Ông nói là ông sẽ chờ ở quán Quill và Tankard ngày thứ ba...”

“Cậu ở đó với các bạn cậu và ta không muốn xông bừa vào.” Ông ta mặc một áo choàng lữ hành màu nâu có mũ trùm đầu, trông không có gì đặc biệt. Mặt trời chênh chếch trên mái nhà sau lưng ông

ta, nên cậu không nhìn rõ khuôn mặt của nhà giả kim dưới chiếc mũ trùm.

“Cậu đã quyết định chưa?”

Ông ta bắt mình phải nói ra điều đó hay sao? “Tôi nghĩ tôi là một thằng ăn trộm.”

“Ta cũng nghĩ cậu sẽ làm vậy.”

Việc khó nhất là quỳ xuống lôi cái hộp ra từ dưới giường của Archmaester Walgrave. Mặc dù cái hộp rất chắc chắn và có nẹp sắt bao quanh nhưng ổ khóa của nó đã vỡ. Maester Gormon nghi ngờ

Pate, nhưng thực ra người phá khóa chính là Archmaester Walgrave sau khi ông đánh mất chìa.

Trong hộp, Pate tìm thấy một chiếc túi đựng những đồng hươu bạc, một lọn tóc vàng được buộc bằng ruy-băng, một bức tiểu họa sơn dầu vẽ một phụ nữ rất giống thầy Walgrave (thậm chí cũng có ria

mép), và một chiếc găng tay thép của hiệp sĩ. Chiếc găng này từng thuộc về một hoàng tử, thầy Walgrave từng nói như vậy, mặc dù ông không còn nhớ vị hoàng tử đó là ai. Khi Pate lắc nó, chiếc chìa khóa rơi xuống sàn.

Nếu mình lấy chiếc chìa khóa này, mình sẽ thành kẻ trộm, Pate nhớ lại suy nghĩ của cậu lúc đó. Chiếc chìa khóa cũ, nặng và được làm bằng sắt đen; nghe nói nó có thể mở mọi cánh cửa ở Citadel, và

chỉ các archmaester mới có. Những archmaester khác đều mang chiếc khóa theo người hoặc giấu ở một nơi an toàn nào đó, nhưng nếu thầy Walgrave đem giấu nó thì chắc không ai có thể tìm được. Pate nắm lấy chiếc chìa khóa và đi ra cửa, được nửa đường, cậu quay lại và lấy nốt những đồng bạc. Đã là kẻ trộm thì dù lấy ít hay nhiều cũng vẫn là kẻ trộm. “Pate,” một con quạ trắng gọi với theo cậu, “Pate, Pate, Pate.”

“Ông có mang theo đồng vàng cho tôi không?” Pate hỏi nhà giả kim.

“Nếu cậu có thứ mà ta yêu cầu.”

“Ông đưa nó ra đây, tôi muốn nhìn thấy nó.” Pate không muốn mình bị lừa.

“Chỗ này không thích hợp. Đi theo ta.”

Pate không có thời gian để cân nhắc. Nhà giả kim đã bước đi. Cậu phải theo ông ta, nếu không sẽ mất cả Rosey lẫn đồng vàng mãi mãi. Và thế là cậu đi theo, vừa đi vừa luồn tay vào tay áo, cảm nhận

được chiếc chìa khóa đang ở đó, an toàn trong một chiếc túi bí mật đã được khâu vào tay áo. Áo choàng của các học sĩ đầy những túi, Pate đã biết điều đó từ khi cậu còn là một đứa trẻ.

Pate phải bước vội cho kịp với những bước sải dài của nhà giả kim. Họ đi xuống một con hẻm, vòng qua một góc phố, đi qua Chợ Ăn Cắp cổ kính, dọc theo phố Ragpicker. Cuối cùng, người đàn

ông lạ rẽ vào một ngõ hẻm khác, hẹp hơn cái trước. “Xa thế này được rồi,” Pate nói. “Ở đây không có ai đâu. Chúng ta bắt đầu thôi.”

“Được thôi.”

“Tôi muốn có đồng vàng của tôi.”

“Đương nhiên rồi.” Và đồng vàng xuất hiện. Nó luồn qua các kẽ ngón tay của nhà giả kim giống hệt như đêm hôm Rosey đến với cậu. Trong ánh ban mai, hình con rồng vàng sáng lấp lánh như thể đang cử động và phản chiếu ánh vàng lên ngón tay nhà giả kim. Pate vồ lấy nó. Đồng vàng ấm áp trong lòng bàn tay cậu. Cậu đưa nó vào miệng cắn như cái cách cậu thấy những người khác vẫn làm. Cậu không

biết vàng thật có vị như thế nào, nhưng không muốn để người khác thấy mình ngu ngốc.

“Chìa khóa đâu?” Nhà giả kim lịch thiệp hỏi.

Có một điều gì đó làm Pate lưỡng lự. “Ông muốn lấy mấy quyển sách à?” Nghe nói mấy cuốn sách Valyria cổ viết trên giấy da được khóa kỹ trong hầm là những bản duy nhất còn lại trên thế giới.

“Cái tôi muốn không liên quan gì đến cậu.”

“Đúng thật.” Mọi chuyện đã xong, Pate tự nhủ. Về thôi. Quay về Quill và Tankard, đánh thức Rosey dậy bằng một nụ hôn và nói cho nàng biết nàng đã thuộc về mình. Nhưng Pate vẫn chần chừ.

“Cho tôi xem mặt ông.”

“Được thôi.” Nhà giả kim hất chiếc mũ trùm ra.

Đó là một người đàn ông bình thường, với một khuôn mặt không có gì đặc biệt. Gương mặt của một chàng trai trẻ, gò má đầy đặn, râu ngắn, trên má phải có một vết sẹo mờ, mũi khoằm, mớ tóc đen

dày và xoăn phủ qua tai. Không phải là gương mặt mà Pate quen biết. “Tôi không biết ông.”

“Ta cũng không biết cậu.”

“Ông là ai?”

“Là một người lạ. Chẳng là ai cả. Thật đấy.”

“Ồ.” Pate không biết nói gì nữa. Cậu rút chiếc chìa khóa ra và đặt vào tay người lạ, cảm thấy mình thật nông nổi, gần như là dại dột. Rosey, cậu tự nhắc mình. “Chúng ta xong rồi nhé.”

Đi được nửa đường ra khỏi con hẻm nhỏ, Pate bỗng cảm thấy con đường lát đá di chuyển dưới chân mình. Những phiến đá trơn và ướt, cậu nghĩ, nhưng vấn đề không phải ở đấy. Cậu cảm thấy tim mình đang đập thình thịch trong l*иg ngực. “Gì thế này?” Cậu hỏi thành tiếng, chân mềm ra như nước.

“Mình không hiểu.”

“Và sẽ không bao giờ hiểu.” Một giọng nói buồn thảm cất lên sau lưng cậu.

Cậu ngã dập mặt xuống con đường lát đá. Pate cố gắng kêu cứu, nhưng giọng cậu cũng thều thào không ra hơi. Ý nghĩ cuối cùng của cậu là về Rosey.